Hỗ trợ 24/24: Vũ Văn Trường 0974281661

This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

Tác dụng bên lề của thang máy

Cho con ăn, mang xe máy xe đạp, vứt rác, khạc nhổ thậm chí tè cả vào thang máy... ngoài chức năng vận chuyển, thang máy còn bị sử dụng vào nhiều mục đích khác mà ngay cả các nhà sản xuất cũng không ngờ tới. Vào thang máy dỗ trẻ ăn
Sống tại các chung cư cao tầng và sử dụng thang máy là phương tiện vận chuyển lên xuống không còn xa lạ đối với cư dân thành thị. Tuy nhiên, do ý thức và sự hiểu biết hạn chế của một bộ phận không nhỏ cư dân đã khiến thang máy trở nhanh chóng xuống cấp, thậm chí còn nguy hiểm tới tính mạng. Đơn cử như việc cho trẻ con sử dụng thang máy. Cửa thang máy tại chung cư ở Hà Đông vừa khép lại, bỗng có tiếng khóc thất thanh của một đứa trẻ đi cùng mẹ khiến không ít người đi cùng lo lắng. Mọi người xúm vào hỏi han mẹ đứa trẻ mới biết được nguyên nhân con của chị khóc là do mọi khi đi cùng vẫn được mẹ cho ấn số thang máy. Hôm nay, người đi thang máy đông nên con chị không được thực hiện động tác này khiến cháu bé khóc đòi. Chính vì hành động chiều con không đúng cách của chị đã tạo thói quen không tốt cho con, đặc biệt là ý thức nơi công cộng. Nhiều người dân cho trẻ con sử dụng thang máy mà không quan tâm tới vấn đề an toàn Nhiều người dân cho trẻ con sử dụng thang máy mà không quan tâm tới vấn đề an toàn Bà Hải, một cư dân ở khu đô thị này khiến cho không ít cư dân phải lắc đầu bởi sáng kiến của bà. Từ khi lên trông cháu ở thủ đô, bà mới có cơ hội đi lại bằng thang máy. Hàng ngày, bà sử dụng thang máy làm chỗ cho cháu ăn. Ngày nào cũng thế vào tầm trưa và chiều, hai bà cháu và bát bột cứ đi lên đi xuống thang máy thường xuyên. Khi bị nhắc nhở, bà chỉ cho cháu ăn ở hành lang tầng nhà mình, gần khu vực thang máy nhưng vẫn cho cháu bấm cả hai nút gọi thang lên xuống. Làm quản lý tại chung cư cao tầng ở Cầu Giấy, anh Hùng cho hay, hiện tượng bố mẹ chiều con sử dụng thang máy diễn ra thường xuyên, ban quản lý không thể đi cùng để nhắc nhở được. Phần lớn là do ý thức của người dân. Ông Hùng cho hay, nhiều cháu vào thang máy là ấn tất cả các tầng, khiến cho không ít mọi người phải chờ đợi. “Việc người lớn để cho trẻ con vào thang máy để chơi là điều rất nguy hiểm, lại vừa ảnh hưởng đến mọi người xung quanh” ông Hùng nói. Tè vào thang máy Khi được hỏi về ý thức sử dụng thang máy của người dân, ông Hùng, ban quản lý chung cư ở Cầu Giấy cho rằng, nhiều người dân chưa bắt kịp với các sống hiện đại ở những chung cư cao tầng. Gần như không bao giờ có người chú ý đến những nội quy này để vận hành cho đúng cách. Chính vì thế, ý thức của họ sử dụng thang máy công cộng còn hạn chế. Đặc biệt là kiến thức xử lý khi kẹt thang máy, khi hoả hoạn rất nông cạn. Ông Hùng cho biết, ông từng chứng kiến trường hợp một cư dân sau khi đi uống rượu say về ban đêm còn tè bậy ra thang máy vì tưởng đó là toilet. Ban quản lý bắt gặp nhưng chỉ mới nhắc nhở chưa không thể xử phạt. Nguyên nhân của việc thang máy xuống cấp một phần do hành khách không tuân thủ những quy định sử dụng thang máy, số lượng người vào thang vượt quá quy định. Có mặt vào giờ cao điểm tại một chung cư ở khu vực Linh Đàm, hàng chục cư dân nhốn nháo chen lấn để vào được thang máy, dù cửa mới mở, người đi xuống chưa kịp đi ra ngoài. Chị Hương, một cư dân ở chung cư này cho hay, toà nhà này mới đi vào hoạt động nhưng tỷ lệ lấp đầy khá cao vì đây là chung cư giá rẻ, ý thức của cư dân cũng khác hẳn. Cảnh tượng xô đẩy nhau đi vào thang máy diễn ra thường xuyên, nhất là vào các giờ cao điểm. Chị Hương cho hay: “Mình xếp hàng để chờ thang máy, trong khi nhiều người khác tới sau nhưng cứ muốn chen chân vào trước, họ còn đẩy cả những người xung quanh để vào cho bằng được dù thang máy đã lấp đầy”. Chị Hương cho biết thêm, do ban quản lý không kiểm soát chặt chẽ nên cư dân tại đây không phân biệt thang máy và thang hàng. Có trường hợp nhân viên giao bình gas đi chung thang chở người khiến chị và những người đi cùng phải toát mồ hôi vì lo lắng. “Nhà chung cư cao tầng có chỗ gửi xe vậy mà có người mang cả xe đạp, thậm chí xe đạp điện vào thang máy để mang lên nhà”, chị cho biết thêm. Nói về cách sử dụng thang máy của người dân, chị Nguyễn Thu Trang (quận Hoàng Mai, Hà Nội) cho hay, khu chung cư nhà mình thuộc diện cao cấp, mỗi cư dân có thẻ mới sử dụng được thang máy nên cũng hạn chế được nhiều đối tượng lạ. Nhưng những chung cư khác, ai cũng có thể vào thang máy thì chất lượng kém hơn hẳn. Đặc biệt là hiểu biết của người dân về thang máy chưa nhiều nên có hiện tượng hoảng loạn khi thang máy bị kẹt. Không ít người còn tỏ ra bực bội khi thang máy dừng ở nhiều tầng để đón khách, thậm chí còn vứt rác, khạc nhổ ra thang máy. “Nhu cầu về chỗ ở ngày càng tăng cao ở các đô thị lớn, làm quen với văn hoá sống chung cư và thói quen sử dụng thang máy văn minh lịch sự là điều mà những người dân cần thiết”, ông Hùng nói. Để tăng cường đảm bảo an toàn, ban quản lý cũng cử người trực thang máy, để nếu có sự cố thì báo cho người bên trong để họ giữ bình tĩnh, không rơi vào hoảng loạn tinh thần. Nguồn: dân trí Dear: Vũ Văn Trường MB: 0974.28.1661

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

Nguyên lý hoạt động của thang máy thủy lực

Khái niệm của một thang máy cực kỳ đơn giản - nó chỉ là một cái thùng gắn liền với một hệ thống nâng hạ. Buộc một đoạn dây thừng vào hộp đó, và bạn đã có một thang máy cơ bản. Tất nhiên, Thang máy hiện đại và thang máy vận chuyển hàng hóa ngày nay có cấu tạo rất phức tạp so với khái niệm thang máy thời khai sinh. Họ cần hệ thống cơ khí tiên tiến để xử lý khối lượng đáng kể của cabin thang máy và hàng hóa của mình. Ngoài ra, họ cần có cơ chế kiểm soát hành khách có thể vận hành thang máy, và họ cần các thiết bị an toàn để giữ cho mọi thứ hoạt động trơn tru. Có hai thiết kế thang máy chủ yếu được sử dụng phổ biến hiện nay: thang máy thủy lực và thang máy chạy bằng máy kéo qua hệ thống dây cáp. Hệ thống thang máy thủy lực nâng cabin thang máy sử dụng một piston thủy lực, một piston dịch theo định hướng gắn bên trong một hình trụ. Bạn có thể thấy hệ thống này hoạt động trong sơ đồ dưới đây. Xi-lanh được kết nối với một hệ thống chất lỏng thông qua 1 cái bơm quay (thông thường chất lỏng thường là dầu chuyên dụng). Hệ thống thủy lực có ba phần: • Một bể chứa chất lỏng • Một máy bơm, được hỗ trợ bởi một động cơ điện • Một van giữa các xi lanh và bể chứa Máy bơm ép dầu từ bể vào một đường ống dẫn đến các xi lanh. Khi van được mở ra, chất lỏng áp lực sẽ đi theo con đường dễ nhất và trở lại hồ chứa chất lỏng. Nhưng khi các van được đóng lại, chất lỏng chịu áp lực không có nơi nào để đi ngoại trừ vào xi-lanh và đẩy piston nâng thang máy lên trên. Khi cabin thang máy bằng tầng, hệ thống điều khiển sẽ gửi một tín hiệu đến tủ điện để dần dần tắt máy bơm. Không có chất lỏng chảy vào xi-lanh, nhưng chất lỏng đó đã có trong Piston không thể thoát ra ngoài (nó không thể chảy ngược qua máy bơm và các van vẫn đóng cửa). Piston dựa trên chất lỏng, và cabin nằm ở đâu. Để dầu trong xi lanh quay trở lại bể dầu, hệ thống điều khiển thang máy sẽ gửi một tín hiệu đến van đóng mở. Van được hoạt động bằng điện và bằng một công tắc điện từ. Khi mở van điện từ, các chất lỏng đã thu thập được trong các xi lanh có thể chảy ra ngoài hồ chứa chất lỏng. Trọng lượng của cabin và hàng hóa đẩy xuống trên các piston, chất lỏng trong Piston chảy vào bồn chứa. Cabin dần dần đi xuống. Dừng cabin ở một tầng thấp hơn, hệ thống điều khiển đóng van lại. Hệ thống này là cực kỳ đơn giản và hiệu quả cao, nhưng nó có một số nhược điểm. Ưu điểm và khuyết điểm của thang thủy lực Ưu điểm chính của hệ thống thang máy thủy lực là có thể dễ dàng dùng một lực tương đối nhỏ của động cơ máy bơm để tạo ra lực tương đối mạnh cần thiết để nâng cabin thang máy. Nhưng các hệ thống này có hai nhược điểm lớn. Vấn đề chính là kích thước của thiết bị. Để cho cabin thang máy có thể tiếp cận với các tầng cao hơn, bạn phải thực hiện các piston dài hơn. Nhưng vẫn phải đảm bảo xi lanh dài hơn một chút so với piston để khi cabin thang máy ở tầng thấp nhất vẫn đảm bảo piston không kịch xi lanh. Vấn đề là toàn bộ cấu trúc xi lanh phải được ở dưới đáy thang máy khi thang ở tầng thấp nhất. Điều này có nghĩa là bạn phải đào sâu hố PIT hơn khi bạn xây dựng cao hơn. Đây là một dự án tốn kém với các tòa nhà cao tầng. Để lắp đặt một thang máy thủy lực trong một tòa nhà 10 tầng, ví dụ, bạn sẽ cần phải đào sâu hố PIT tương đương với độ cao của 9 tầng. Những bất lợi khác của thang máy thủy lực là hoạt động kém hiệu quả. Phải mất rất nhiều năng lượng để nâng cao một chiếc cabin thang máy, và trong một thang máy thủy lực tiêu chuẩn, không có cách nào để lưu trữ năng lượng này. Năng lượng của vị trí chỉ hoạt động để đẩy chất lỏng vào bồn chứa. Nâng cao cabin thang máy một lần nữa, hệ thống thủy lực có để tạo ra năng lượng trên một lần nữa. Nguồn : thang máy hùng cường Dear:Vũ Văn Trường ĐT : 097.428.1661

Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014

Tiêu chuẩn an toàn đối với thang máy

An toàn thang máy Cần áp dụng sớm Quy Chuẩn Việt Nam về an toàn đối với thang máy điện Thời gian qua một số phương tiện thông tin có đưa các tin về hư hỏng và tai nạn liên quan đến thang máy. Nguyên nhân chính được nêu ra một phần là do công tác kiểm định chất lượng thang máy đang bị bỏ ngỏ, đồng thời việc sử dụng và vận hành thang máy an toàn đang bị xem nhẹ. Dưới góc độ đơn vị sản xuất chúng tôi xin chia sẻ thêm một số ý kiến Cơ sở tiến hành kiểm định hiện nay dựa trên tiêu chuẩn TCVN 6395:2008 – Thang máy điện – yêu cầu an toàn về cấu tạo lắp đặt. Tuy nhiên có một số bất cập là : - Hồ sơ kỹ thuật chưa được chi tiết: chưa ghi vào khối lượng cabin, khối lượng đối trọng, các chứng chỉ thử nghiệm mẫu của các bộ phận an toàn và các thành phần quan trọng khác. - Đang có sự bỏ qua, xem nhẹ với điều khoản 7.2.3 về diện tích sàn cabin cho thang máy tải khách và nhất là với thang máy tải hàng có kèm người. Diện tích sàn quá lớn so với tải trọng qui định trong bảng 1 và bảng 2. Điều này rất nguy hiểm, vì khi có quá nhiều người vào cabin thang máy gây vượt tải trọng thiết kế, có khả năng dẫn đến hiện tượng trượt cáp tải tạo cảm giác rơi tự do gây hoang mang lo sợ cho người sử dụng. - Tương tự, nhiều thang máy tải khách có tốc độ > 0.63m/s sử dụng bộ hãm an toàn loại tức thời, có thể gây chấn động mạnh cho người và cho cả kết cấu cabin khi bộ hãm an toàn hoạt động. - Việc cung cấp các chứng chỉ kiểm tra, thử nghiệm mẫu điển hình với một số cơ cấu an toàn chưa thực hiện. Mẫu biên bản kiểm định còn khá sơ sài, nhiều cột sử dụng đánh dấu đạt, không đạt mà không có con số cụ thể. - Một số đơn vị kiểm định thiếu chuyên nghiệp, nguồn lực hạn chế, kiểm định viên chỉ có vài ba người không có phương tiện, dụng cụ vẫn được quyền chứng nhận kiểm định. Bên cạnh đó, trong điều 12, khoản 12.3.2 thuộc TCVN 6395:2008 chỉ qui định hồ sơ cần có hướng dẫn để đảm bảo an toàn, không qui định cần có đơn vị hoặc con người chuyên trách đã được đào tạo để bảo dưỡng thang máy. Thời gian qua nhiều tai nạn thang máy gây thiệt hại về người liên quan đến người bảo dưỡng thiếu chuyên nghiệp và bỏ qua các quy định về an toàn trong sử dụng vận hành thang máy. Thực tế đòi hỏi cần qui định có đơn vị chuyên trách bảo dưỡng thang máy ít nhất nếu là thang máy sử dụng có tính chất công cộng như thang máy cho chung cư, trường học, ký túc xá, bệnh viện, công sở… Một yếu tố quan trong nữa là người trực tiếp quản lý vận hành thang máy cũng cần được huấn luyện cơ bản về cách thức sử dụng thang máy an toàn, cách thức cứu hộ đúng cách trong trường hợp có sự cố như mất điện đột ngột, cháy nổ, hay hư hỏng đột xuất thông thường. Trước nhu cầu quản lý thang máy cả nhập khẩu và sản xuất trong nước đã lên đến vài ngàn chiếc/năm, vào tháng 4/2011 Bộ LĐTBXH đã ban hành Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động đối với thang máy điện QCVN 02/2011/BLĐTBXH. Cùng với TCVN 6395:2008, qui chuẩn yêu cầu bắt buộc đăng ký và đánh giá sự phù hợp cho thang máy sản xuất trong nước và thang máy nhập khẩu. Thị trường thang máy Việt Nam hiện nay có sự góp mặt của hơn 100 công ty trong và ngoài nước, với cách tổ chức sản xuất khác nhau, nhập khẩu các linh kiện và thang máy với nhiều nguồn và thương hiệu lạ, đòi hỏi việc triển khai cấp bách thực hiện qui chuẩn vừa ban hành. Việc này giúp khắc phục được các hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng thang máy hiện nay, đồng thời gia tăng áp lực cho các đơn vị sản xuất thực hiện đầu tư, sản xuất các thang máy có độ an toàn cao, góp phần giảm tới mức tối thiểu các sự cố, tai nạn ra bởi thang máy và bảo đảm an toàn, sức khỏe cho người sử dụng.

Thang máy quan sát và sự tiện dụng

Biến đổi không gian thang máy Tập đoàn công nghiệp ThyssenKrupp (Đức), hãng hàng đầu thế giới về thị trường thang máy, đã chọn thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Eric Gizard để tạo ra một hình mẫu thang máy mới.Eric Gizard đã quyết định thay thế các góc nhọn bằng những đường cong. Điều này giúp người dùng thang máy có cảm giác như trong một chiếc vỏ kén với không gian thoải mái, ít bị gò bó hơn. Không gian thang máy ít bị gò bó hơn Không gian cổ điển bên trong được biến chuyển với nhiều ánh sáng và sắc màu hiện đại. Gam màu ấn tượng thường được Eric Gizard sử dụng để tạo nên sự tương tác giữa các vật liệu.Ở đây có sự tương phản giữa hai màu đen và trắng nhưng vẫn tạo được không gian hài hòa, thoải mái.Eric Gizard rất thích thể hiện những phá cách của mình trong không gian hẹp.Điều này giúp ông biến đổi không gian hạn chế của cabin thang máy trở nên rộng rãi thoải mái hơn nhờ sự kết hợp giữa ánh sáng và các vật liệu phản chiếu tạo độ sâu cho không gian bên trong. Để tạo luồng ánh sáng mềm mại, một dải ruban đèn LED được đặt tại các chân tường. Dải ruban này được điều khiển bằng một chương trình tự động nhằm thay đổi ánh sáng từ đỏ qua xanh dương, xanh lá cây, điều chỉnh độ sáng, để tạo một bầu không khí thực sự ấn tượng bên trong thang máy. Thiết kế của Eric Gizard giúp hãng ThyssenKrupp biến thang máy thành một không gian sống thực sự chứ không đơn thuần là một khoang vận chuyển đơn thuần. Dear: Vũ Văn Trường 0974281661

Thang máy không gian

Khái niệm về thang máy không gian Thang máy không gian là một loại đề xuất của hệ thống giao thông vận tải không gian. Thành phần chính của nó là một cáp ribbon giống như (còn gọi là tether ) neo vào bề mặt và kéo dài vào không gian. Nó được thiết kế để cho phép phương tiện vận tải dọc theo dây cáp từ một bề mặt hành tinh, chẳng hạn như của Trái đất, trực tiếp vào không gian hoặc quỹ đạo, mà không có việc sử dụng các tên lửa lớn . Khái niệm về thang máy không gian (Khái niệm về thang máy không gian) Thang máy không gian trên Trái Đất sẽ bao gồm một cáp với một đầu gắn với bề mặt gần xích đạo và đầu kia trong không gian vượt ra ngoài quỹ đạo địa tĩnh (35.800 km độ cao). Các lực lượng cạnh tranh của lực hấp dẫn, đó là mạnh mẽ hơn vào cuối thấp hơn, và bên ngoài / lực ly tâm tăng lên, đó là mạnh mẽ hơn ở cuối phía trên, sẽ cho kết quả trong cáp được tổ chức, dưới sự căng thẳng, và văn phòng phẩm trên một vị trí duy nhất trên trái đất . Sau khi triển khai, tether sẽ được lên nhiều lần bởi các phương tiện cơ học quỹ đạo, và xuống để quay trở lại bề mặt từ quỹ đạo. Khái niệm cho một thang máy không gian lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1895 bởi Konstantin Tsiolkovsky. Đề xuất của ông cho một tháp miễn phí-đứng đạt từ bề mặt trái đất với chiều cao của quỹ đạo địa tĩnh. Giống như tất cả các tòa nhà, cấu trúc Tsiolkovsky sẽ được nén , hỗ trợ trọng lượng của nó từ bên dưới. Từ năm 1959, hầu hết các ý tưởng cho thang máy không gian đã tập trung vào các cấu trúc hoàn toàn căng , với trọng lượng của hệ thống tổ chức từ trên cao. Trong các khái niệm bền kéo, một tether không gian đến từ một khối lượng lớn (đối trọng) vượt ra ngoài quỹ đạo địa tĩnh xuống đất. Cấu trúc này được tổ chức trong sự căng thẳng giữa Trái Đất và đối giống như một upside-down plumb bob . Thang máy không gian đôi khi cũng được gọi là beanstalks, cầu không gian, thang máy không gian, thang không gian, skyhooks, tháp quỹ đạo, hoặc thang máy quỹ đạo. Trên trái đất, với trọng lực tương đối mạnh mẽ, công nghệ hiện nay không phải là có khả năng sản xuất vật liệu tether có đủ mạnh mẽ và ánh sáng để xây dựng một thang máy không gian. Tuy nhiên, khái niệm gần đây cho một thang máy không gian là đáng chú ý cho kế hoạch của họ để sử dụng ống nano carbon hoặc vật liệu ống nano boron nitride dựa trên các yếu tố kéo trong thiết kế tether. Sức mạnh đo được của những phân tử này là cao so với mật độ của họ và họ hứa hẹn làm nguyên liệu để làm cho một thang máy không gian trên Trái Đất có thể. Khái niệm này cũng áp dụng đối với các hành tinh khác và các thiên thể . Đối với các vị trí trong hệ thống năng lượng mặt trời với trọng lực yếu hơn Trái Đất (chẳng hạn như mặt trăng hoặc sao Hỏa ), các yêu cầu sức mạnh mật độ không phải là tuyệt vời đối với nguyên liệu tether. Vật liệu Hiện nay có sẵn (như Kevlar ) rất mạnh và đủ ánh sáng họ có thể được sử dụng như là vật liệu tether cho thang máy ở đó.

NGuyên lý hoạt động của thang máy

Công nghệ thang máy Nguyên lý hoạt động của thang máy dùng cable kéo Thang máy phổ biến nhất ngày nay là thang máy dùng cáp kéo. Trong thang máy dùng cáp kéo, cabin được nâng lên và hạ xuống bằng dây thép thay bằng việc dùng piston đẩy từ dưới lên như thang thủy lực. Những dây cap được gắn vào cabin thang máy, và đấu vòng xung quanh một pully. khi pully quay thì dây cáp cũng di chuyển theo. Các pully được kết nối với một động cơ điện. Khi động quay làm quay pully, pully sẽ làm cho dây cáp di chuyển và kéo cabin thang máy di chuyển theo hướng thiết đặt sẵn, khi động cơ quay theo chiều ngược lại thì pully quay theo chiều ngược lại và làm cho cabin thang máy di chuyển theo chiều ngược lại chiều định sẵn. Trong thang máy không hộp số , động cơ quay pully trực tiếp của động cơ. Thông thường, pully, động cơ và hệ thống điều khiển tất cả đều được đặt trong một phòng máy trên đỉnh giếng thang máy. Những dây cáp nâng cabin cũng được kết nối với một đối trọng, treo ở phía bên kia của pully. Đối trọng nặng hơn so với cabin khi chất đủ tải khoảng 40%. Nói cách khác, khi cabin chất đủ tải trọng và cộng thêm 40% của phần đủ tải này thì đối trọng và cabin thang máy cân bằng nhau. Mục đích của sự cân bằng này là để bảo toàn năng lượng. Với tải trọng ngang nhau trên mỗi bên của pully, máy kéo chỉ mất một chút lực để đảo ngược cân bằng cách này hay cách khác. Về cơ bản, máy kéo chỉ tạo ra một lực thắng lực ma sát, còn trọng lượng ở phía bên kia thực hiện phần lớn công việc di chuyển. Nói một cách khác, sự cân bằng duy trì liên tục trong hệ thống. Sử dụng các năng lượng tiềm năng trong cabin thang máy (để cho nó đi xuống) tích tụ năng lượng tiềm năng trong trọng lượng (trọng lượng tăng lên đến trên cùng của trục). Điều tương tự cũng xảy ra ngược lại khi thang máy đi lên. Hệ thống này giống như một cái bập bênh có một đứa trẻ đều nặng trên mỗi đầu. Cả cabin thang máy và đối trọng đều di chuyển và trượt trên ray dẫn hướng qua hệ thống guốc trượt (shoes) theo hai bên của giếng thang máy.Đường ray giữ cabin và đối trọng giảm sự lắc lư qua lại, và nó cũng được sử dụng với mục đích an toàn để dừng cabin trong trường hợp khẩn cấp.

Tư vấn kiểm định thang máy 2014

Tư vấn thang máy Kiểm định kỹ thuật an toàn hệ thống thang máy trong nhà cao tầng Để bảo đảm chất lượng, an toàn trong sử dụng và kéo dài tuổi thọ của thiết bị thang máy, công tác nghiệm thu kỹ thuật thang máy sau lắp đặt phải được thực hiện nghiêm túc và chuẩn xác. Với những nội dung của quy trình kiểm định kỹ thuật an toàn thang máy hoàn toàn có thể đánh giá một cách chính xác về chất lượng thiết bị và chất lượng lắp đặt thang máy. I. Lời mở đầu Những năm gần đây ngành Xây dựng đã có những bước phát triển nhanh chóng. Các công trình công nghiệp và dân dụng mọc lên ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong các đô thị lớn ở nước ta khi quỹ đất ngày một thu hẹp, để đáp ứng nhu cầu về văn phòng làm việc và nhà ở ngày càng tăng của xã hội, việc xây dựng nhà cao tầng là một giải pháp hữu hiệu với việc phát triển nhà cao tầng, yêu cầu đảm bảo lưu thông theo chiều cao là một trong những vấn đề kỹ thuật được đặt ra; do đó việc lắp đặt và sử dụng thang máy để giải quyết vấn đề này là một yêu cầu tất yếu. Theo số liệu thống kê được, cả nước hiện có trên 5.000 thang máy, chủ yếu là thang máy điện. Những năm gần đây do tốc độ phát triển nhà cao tầng tăng mạnh, thang máy được lắp đặt tăng nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại. Các hãng thang máy nổi tiếng trên thế giới như OTIS (Mỹ), THYSSEN (CHLB Đức), SCHINDLER (Thuỵ Sỹ), MITSUBISHI, HITACHI, NIPPON (Nhật bản), SIGMA, Hùng Cường, Thiên Nam, Á Châu, Thái Bình.... Để bảo đảm chất lượng, an toàn trong sử dụng và kéo dài tuổi thọ của thiết bị thang máy, công tác nghiệm thu kỹ thuật thang máy sau lắp đặt phải được thực hiện nghiêm túc và chuẩn xác. Với những nội dung của quy trình kiểm định kỹ thuật an toàn thang máy hoàn toàn có thể đánh giá một cách chính xác về chất lượng thiết bị và chất lượng lắp đặt thang máy. II. Giới thiệu yêu cầu, nội dung kiểm định hệ thống thang máy 1. Các tiêu chuẩn an toàn về cấu tạo, lắp đặt và sử dụng 1.1. Các tiêu chuẩn hiện hành (TCVN) - TCVN 5744: 1993 Thang máy – Yêu cầu an toàn trong lắp đặt và sử dụng- TCVN 5866: 1995 Thang máy – Cơ cấu an toàn cơ khí- TCVN 5867: 1995 Thang máy – Cabin, đối trọng, ray dẫn hướng – Yêu cầu an toàn- TCVN 6395: 1998 Thang máy điện – Yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt- TCVN 6396: 1998 Thang máy thuỷ lực - Yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt- TCVN 6397: 1998 Thang cuốn và băng chở người - Yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt- TCVN 6904: 2001 Thang máy điện – Phương pháp thử các yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt- TCVN 6905: 2001 Thang máy thuỷ lực – Phương pháp thử các yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt- TCVN 6906: 2001 Thang cuốn và băng chở người – Phương pháp thử các yêu cầu an toàn về cấu tạo và lắp đặt 1.2. Đối với các loại thang máy mà chưa có TCVN Áp dụng tiêu chuẩn của các hãng chế tạo (bảo đảm tiêu chuẩn châu Âu, Nhật Bản). 2. Thời hạn kiểm định a) Thang máy là loại thiết bị thuộc danh mục các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn do Nhà nước quy định. Thang máy phải được tiến hành kiểm định kỹ thuật an toàn toàn bộ trong các trường hợp sau: - Sau lắp đặt trước khi đưa vào sử dụng. - Đến thời hạn kiểm định toàn bộ định kỳ (không ít hơn 5 năm). - Sau khi cải tạo, sửa chữa lớn. - Khi sảy ra sự cố nghiêm trọng, đã khắc phục xong trước khi đưa vào sử dụng. - Theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn lao động. Công tác kiểm định KTAT toàn bộ do Trung tâm Kiểm định kỹ thuật an toàn thực hiện. b) Việc kiểm tra định kỳ do đơn vị bảo trì - bảo dưỡng thang máy tiến hành; nội dung kiểm tra theo quy định của nhà sản xuất; kết quả kiểm tra định kỳ phải được ghi vào sổ nhật ký thang máy dưới dạng biên bản kiểm tra. Thời hạn giữa hai lần kiểm tra không quá một năm. 3. Nội dung - Phương pháp kiểm định KTAT thang máy 3.1. Quy định chung Công tác kiểm định KTAT thang máy sau lắp đặt, trước khi đưa thang máy vào sử dụng là một yêu cầu bắt buộc. Cơ sở để đánh giá tổng thể và sự đồng bộ của thang máy căn cứ vào hồ sơ thiết kế, hồ sơ kỹ thuật và chứng chỉ xuất xưởng do nhà sản xuất cung cấp. (theo Phụ lục A). Công tác kiểm định KTAT (bao gồm kiểm tra kỹ thuật toàn bộ và thử nghiệm) chỉ được tiến hành khi khả năng chịu lực của kết cấu xây dựng phù hợp với quy định của thiết kế (phần kết cấu xây dựng buồng máy và hố thang đã được nghiệm thu) và khi thang máy đã được lắp đặt hoàn chỉnh, sẵn sàng hoạt động (nghiệm thu lắp đặt, nghiệm thu chạy thử). 3.2. Nội dung và phương pháp kiểm định kỹ thuật an toàn hệ thống thang máy trong nhà cao tầng * Phương pháp kiểm tra - Kiểm tra kết cấu xây dựng khu vực lắp thang, kích thước và độ chính xác kích thước hình học của các đối tượng sau: a) Giếng thang; b) Buồng máy, buồng puly (nếu có); c) Cửa tầng, cửa cabin, khe hở giữa các cánh cửa và giữa các cánh cửa với khuôn cửa; d) Sàn và nóc cabin; e) Các khoảng cách an toàn; f) Sai lệch dừng tầng; g) Cáp và cáp (xích) bù; h) Đường kính puly. - Kiểm tra sự đồng bộ, đầy đủ, kết cấu và bố trí hợp lý và khả năng làm việc an toàn của: a) Trạng thái đóng mở cửa, khả năng chống kẹt cửa cabin và cửa tầng, thiết bị báo động, thiết bị cứu hộ và chiếu sáng; b) Các thiết bị khoá; c) Kết cấu treo và dẫn hướng cửa; d) Kết cấu tay vịn, kết cấu treo, cửa sập cứu hộ, cửa cứu hộ, thiết bị điều khiển trên nóc cabin; e) Kết cấu cabin đối trọng và kết cấu treo cabin đối trọng; f) Kết cấu và khả năng điều chỉnh của kẹp ray, khoảng cách tối đa giữa các kẹp ray so với thiết kế; g) Hệ thống thông gió; h) Lối lên xuống, độ sạch sẽ khô ráo của giếng thang; i) Hệ thống phanh, hệ thống cứu hộ, bộ chống đảo pha, hệ thống bảo vệ các bộ phận quay; j) Các công tắc chính, công tắc cực hạn; k) Phương thức phát động bộ hãm bảo hiểm. - Đo và kiểm tra hệ thống điện, vận tốc định mức, nhiệt độ buồng máy a) Điện áp, cường độ dòng điện; b) Dây dẫn, bố trí và lắp đặt dây dẫn; c) Điện trở cách điện, điện trở mối nối; d) Vận tốc định mức; e) Hệ chiếu sáng; f) Nhiệt độ buồng máy. - Kiểm tra hệ thống điện an toàn. * Phương pháp thử nghiệm - Thử phanh Phanh thang máy được thử theo trình tự sau: + Chất tải bằng 125% tải định mức; + Cho cabin đi xuống với vận tốc định mức; + Ngắt nguồn điện động cơ và nguồn điện phanh; + Đo quãng đường phanh. Quãng đường phanh không vượt quá giá trị quy định của nhà sản xuất. - Thử bộ khống chế vượt tốc Bộ khống chế vượt tốc được thử bằng cách tạo vượt tốc theo quy định khi cabin hoặc đối trọng đi xuống. a/ Bộ khống chế vượt tốc phải phát động cho bộ hãm bảo hiểm cabin hoạt động khi vận tốc đi xuống của cabin đạt giá trị bằng 115% vận tốc định mức. b/Thiết bị điều khiển điện hoạt động đúng theo quy định. - Thử bộ hãm bảo hiểm - Thử bộ hãm bảo hiểm cabin + Thử nghiệm nhằm kiểm tra độ chính xác sau lắp đặt, độ tin cậy của cụm thiết bị đồng bộ gồm: cabin, ray dẫn hướng, bộ hãm bảo hiểm và bản mã gắn vào công trình. + Thử bộ hãm bảo hiểm được tiến hành khi cabin đi xuống, tải thử được phân bố đều trên sàn cabin, phanh mở và: a) Đối với bộ hãm bảo hiểm tức thời hoặc bộ hãm bảo hiểm tức thời có giảm chấn: Thang chuyển động đi xuống với vận tốc định mức; Tải trọng bằng tải trọng định mức b) Đối với bộ hãm bảo hiểm êm: Tải trọng bằng 125% tải trọng định mức; Chuyển động với vận tốc định mức hoặc thấp hơn; Trong trường hợp được thử với vận tốc thấp hơn vận tốc định mức thì nhà sản xuất phải cung cấp đầy đủ hồ sơ kỹ thuật hợp pháp chỉ rõ đặc tính của loại bộ hãm bảo hiểm được thử khi tiến hành thử động lực cùng với thiết bị treo. + Bộ hãm bảo hiểm đối trọng - Thử nghiệm nhằm kiểm tra độ chính xác lắp ghép, độ chính xác sau lắp đặt. độ tin cậy của cụm thiết bị đồng bộ gồm đối trong, bộ hãm bảo hiểm, ray dẫn hướng và các bản mã gắn vào công trình. - Thử bộ hãm bảo hiểm được tiến hành khi đối trọng đi xuống và: a) Đối với bộ hãm bảo hiểm tức thời hặoc loại bộ hãm bảo hiểm tức thời có giảm chấn: Thang không tải; Chuyển động với vận tốc định mức. b) Đối với bộ hãm bảo hiểm êm: Thang không tải; Chuyển động với vận tốc định mức hoặc chậm hơn. Nếu phép thử được thực hiện ở vận tốc thấp hơn ận tốc định mức thì nhà sản xuất phải cung cấp đồ thị biểu diễn đặc tính của loại bộ hãm bảo hiểm êm cho đối trọng khi thử động lực cùng với bộ phận treo. - Thử bộ hãm bảo hiểm được tiến hành bằng cách tác động để bộ khống chế vượt tốc bật hãm ngoại trừ trường hợp bộ khống chế vượt tốc có puly thử với đường kính nhỏ hơn để tạo vận tốc phát động. - Thử kéo Chức năng kéo của thang được thử bằng cách cho cabin không tải lên tầng dừng phía trên. Chất tải bằng 125% tải trọng định mức, sau đó cho cabin đi xuống đến tầng dừng phía dưới. Trong quá trình đi xuống cabin được dừng ở một số tầng. ở mỗi lần dừng cabin không bị trôi hoặc tụt tầng. Sau khi rỡ tải đưa cabin không tải đi lên tầng phục vụ cao nhất. Cabin không thể tiếp tục chuyển động lên được nữa khi đối trọng tựa trên giảm chấn, dù động cơ vẫn hoạt động theo chiều đi lên; tiếp tục đưa cabin đi xuống tựa trên giảm chấn, đối trọng không thể nâng cao hơn so với hồ sơ kỹ thuật, dù động cơ vẫn hoạt động theo chiều đi xuống. Trong khi thử tiến hành đo cường độ, điện áp và tốc độ động cơ. + Giảm chấn Giảm chấn dạng tích luỹ năng lượng được thử bằng cách cho cabin với tải trọng định mức tựa trên giảm chấn, cáp nâng trùng. Đo và quan sát độ lún. So sánh với thông số do nhà chế tạo cung cấp. Giảm chấn tích luỹ năng lượng tự phục hồi và giảm chấn hấp thu năng lượng được thử bằng cách cho cabin với tải trọng định mức và đối trọng tiếp xúc với giảm chấn tại thời điểm có vận tốc bằng vận tốc định mức hoặc vận tốc khi tính toán giảm chấn. Kết quả kiểm tra được đánh giá bằng cách quan sát cẩn thận tình trạng của giảm chấn. Sau khi thử không có bất cứ hư hỏng nào gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của thang. - Thử cứu hộ tự động (nếu có) Thử cứu hộ tự động (nếu có) được tiến hành bằng cách cho thang chuyển động bình thường. Ngắt điện nguồn. Kiểm tra hoạt động của thiết bị theo quy định của nhà sản xuất. - Thiết bị báo động cứu hộ Thiết bị báo động cứu hộ được thử ở trạng thái bình thường của thang và ở trạng thái không có điện nguồn. ở cả hai trạng thái hoạt động của thang chuông và điện thoại phải hoạt động đúng theo chỉ dẫn trong hồ sơ kỹ thuật. · Khi nhiều thang máy lắp đặt chung một hệ thống điều khiển, việc tiến hành kiểm định được tiến hành lần lượt cho từng thang, sau đó kiểm tra hệ điều khiển theo tính năng của cả hệ thống. · Kết quả kiểm định kỹ thuật an toàn được thể hiện trên Biên bản kiểm định kỹ thuật an toàn thang máy. III. Các hồ sơ kỹ thuật và chứng chỉ do nhà sản xuất cung cấp 1. Bản vẽ kỹ thuật và các thông tin chi tiết về kỹ thuật bao gồm Kích thước thông thuỷ của khoảng không gian dự phòng đỉnh giếng và hố thang Lối vào hố thang Vách ngăn giữa thang nếu lắp nhiều thang trong một giếng thang; Các quy định về cố định ray; Vị trí, kích thước, buồng máy, mặt bằng lắp đặt máy và thiết bị, lỗ thông gió, lực tác động vào công trình; Lối vào buồng máy Vị trí, kích thước lối vào buồng máy; Puly, bố trí thiết bị trong buồng puly (nếu có); Loại và kích thước cửa tầng Loại và kích thước cửa kiểm tra, cửa sập kiểm tra; Kích thước cabin và cửa cabin Khoảng cách an toàn Đặc tính cơ bản của hệ treo như hệ số an toàn, cáp (số lượng, đường kính, tải trọng kéo đứt cáp) hoặc xích (loại, bước, tải trọng kéo đứt); Đặc tính cơ bản về cáp của bộ không chế vượt tốc (hệ số an toàn, đường kính, lực kéo đứt); Kích thước, độ bền của ray dẫn hướng, điều kiện, kích thước mặt chịu ma sát; Kích thước, độ bền của giảm chấn loại tích luỹ năng lượng j kiểu tuyến tính; Sơ đồ mạch điện kể cả mạch động lực, mạch nối với thiết bị an toàn điện. 2. Chứng chỉ và quy cách kỹ thuật Các chứng chỉ thử nghiệm các bộ phận an toàn; Các chứng chỉ khác như cáp, xích, thiết bị chống cháy nổ.v.v... Chứng chỉ về thiết bị an toàn; Các chứng chỉ thử nghiệm độ bền cơ học; Chứng chỉ về độ bền và khả năng chịu lửa của cửa tầng. IV. Danh mục kiểm tra về thiết bị điện an toàn Điều khoản TCVN 6395:1998 - Nội dung kiểm tra 4.2.2.5 Trạng thái đóng của các cửa kiểm tra, cứu hộ và cửa sập kiểm tra 4.6.2.6a Thiết bị dừng trong hố thang 5.4.5 Thiết bị dừng trong buồng puly 6.6.4 Kiểm tra khoá cửa tầng 6.6.6.1 Trạng thái đóng của cửa tầng 6.6.6.5 Trạng thái đóng của các cửa không khoá với cửa lùa nhiều cánh 7.5.11.1 Trạng thái đóng cửa cabin 7.5.11.2 Khoá cửa cabin (nếu có) 7.6.3.5 Khoá cửa sập cứu hộ và cửa cứu hộ cabin 7.3.5.6 Thiết bị dừng trên nóc cabin 7.9.4.3 Độ dãn tương đối bất thường của cáp hoặc xích (tương đối bất thường của cáp hoặc xích (khi treo cabin bằng 2 dây cáp hoặc xích) 7.9.5.1 Độ căng của cáp bù 7.9.5.2 Thiết bị chống nẩy 9.2.2.7 Hoạt động của bộ hãm bảo hiểm 9.3.11.1 Hoạt động của bộ khống chế vượt tốc 9.3.11.2 Sự phục hồi của bộ khống chế vượt tốc 9.3.11.3 Độ căng của cáp bộ khống chế vượt tốc 9.4 Thiết bị bảo vệ khi cabin đi xuống vượt tốc 9.4.6 Độ phục hồi của giảm chấn 10.5.5 Độ giảm chấn trong trường hợp giảm chấn hành trình ngắn 10.6 Độ trùng của cáp (hoặc xích theo hướng nâng) 10.8.1.1 Vị trí vô lăng cứu hộ tháo lắp được 11.8.3.3.2b Công tắc cực hạn 11.8.1.2a Kiểm tra việc điều chỉnh và điều chỉnh lại tầng 11.8.2.2.3 Độ căng của thiết bị truyền tín hiệu vị trí cabin (các công tắc cực hạn) 11.8.1.5b; i Hạn chế chuyển động cabin cho thao tác xếp dỡ 11.8.1.5i Thiết bị dừng cho thao tác kiểm tra 11.8.6 Hệ thống báo quá tải

Thang máy tốc độ cao nhất

Một công ty của Nhật Bản sẽ cung cấp và lắp đặt hệ thống thang máy nhanh nhất thế giới với vận tốc lên đến 72 km/h trong một tòa nhà cao tầng ở Trung Quốc. Mô hình tòa nhà Trung tâm Thương mại CTF tại thành phố Quảng Châu, nơi sẽ được lắp đặt hệ thống thang máy nhanh nhất thế giới. Ảnh: Kohn Pedersen Fox Associates AFP, tập đoàn điện tử và kỹ thuật Hitachi của Nhật sẽ lắp đặt 95 thang máy, bao gồm hai thang máy có tốc độ siêu nhanh, thang máy tốc độ nhanh và thang máy hai tầng. Hệ thống thang máy đi từ tầng một đến tầng 95, với chiều dài thân trục khoảng 440 m, chỉ trong 43 giây. Thang máy này sử dụng động cơ nam châm vĩnh cửu mới, đồng thời được trang bị hệ thống phanh chịu nhiệt cao. Tốc độ nhanh nhất của thang máy là 1.200 m/phút, tương đương 72 km/h. Hitachi sẽ cung cấp hệ thống thang máy này cho tòa nhà Trung tâm Tài chính CTF tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tòa nhà CTF cao 530 m, gồm 111 tầng và sẽ trở thành tòa nhà cao nhất tại Quảng Châu. CTF được dự kiến mở cửa hoạt động vào năm 2016 với hệ thống văn phòng, khách sạn và khu căn hộ. Thang máy nhanh nhất thế giới hiện nay được sử dụng tại tòa nhà Taipei 101 ở Đài Loan với tốc độ 60,6 km/h.

Nhà ở xã hội và những rắc rối

Tại sao nhà ở xã hội lại chỉ 6 tầng và không có thang máy?

 
Thảo luận dự án Luật Nhà ở sửa đổi, đại biểu Trần Du Lịch cho rằng, cần thay đổi cách tiếp cận vấn đề: hỗ trợ để người dân có nhà ở chứ không phải sở hữu nhà, hay nhà ở xã hội là phải “lôm côm”.
Định kiến nhà ở xã hội
Luật Nhà ở hiện hành đã bất cập kể từ khi đưa ra thực tế. Đột phá của Luật Nhà ở là xây dựng phát triển nhà ở xã hội, nhưng khi đưa luật vào TP Hồ Chí Minh thì quy định nhà xã hội chỉ có 6 tầng, không có thang máy và bằng vốn Nhà nước, không tính tiền đất. Ông Lịch nói: “Một nhà đầu tư nói rằng, Nhà nước muốn 6 tầng, thà để tôi xây 15 tầng, tặng không Nhà nước 6 tầng để làm nhà xã hội, tôi làm thang máy cho người ta đi. Nhà ở xã hội phải là nhà hơi lôm côm một chút, còn nhà thương mại thì mới đàng hoàng. Cách đặt vấn đề như vậy là sai. Bất cập thứ hai là chúng ta tập trung phát triển nhà ở xã hội, nhưng sau 8 năm thực thi, nhà ở xã hội thì không phát triển, còn thị trường nhà ở lại phát triển méo mó, vừa thừa vừa thiếu. Nhà thương mại thì phát triển ồ ạt, còn nhà phổ thông phù hợp với sức mua của dân thì không có. Tôi đánh giá luật hiện hành khác với một số đại biểu là tác dụng rất hạn chế, không đóng góp vai trò to lớn gì cả, tôi xin nói rõ như vậy”.
Do đó, đại biểu Trần Du Lịch cho rằng, Luật nên sửa tập trung vào vấn đề chính sách phát triển nhà ở, vì trong tương lai, với quá trình đô thị hóa, vấn đề nhà ở là vấn đề rất lớn và nhằm thực hiện quyền nhà ở theo Hiến pháp cho người dân. Chúng ta thống nhất quan điểm cái gì của thị trường để thị trường làm, nhà nước tập trung phát triển nhà ở ở phần của nhà nước, chúng ta không ôm tất cả vấn đề của thị trường vào đây. “Quan điểm là nhà nước làm sao mọi người dân có chỗ ở chứ nhà nước không khuyến khích, không làm những động tác để mọi người sở  hữu nhà ở. Như hiện nay, gói hỗ trợ 30 ngàn tỷ đồng là đối tượng không đúng. Chúng ta muốn những người làm không đủ ăn vẫn sở hữu nhà ở là hoàn toàn sai. Chúng ta phải thay quan điểm để phát triển”. Đại biểu Trần Du Lịch đề nghị, về nhà ở xã hội, nên tập trung chính sách để phát triển nhà cho thuê đối với tất cả đối tượng mà không ưu tiên vấn đề bán. Riêng về nhà ở thương mại, nên tập trung chính sách phát triển loại nhà phổ thông. Ở TP Hồ Chí Minh, Hà Nội là loại căn hộ 1-1,5 tỷ, ở các tỉnh 500-600 triệu đồng để phù hợp sức mua thị trường. Đây chính là vấn đề mà hiện nay chúng ta thiếu chính sách.
Đứng trên khía cạnh pháp lý, đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh - TP Hồ Chí Minh góp ý về thời điểm xác lập quyền sở hữu về nhà ở. Việc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì chỉ có khi nào có quyền chủ sở hữu về nhà ở thì lúc đó các quan hệ giao dịch về nhà ở mới được pháp luật bảo vệ. “Luật nhà ở hiện hành với Luật dân sự đã vênh, chính việc vênh ấy cho nên việc xét xử để lại hậu quả pháp lý vô cùng khác nhau. Cấp này xử thắng, lên cấp trên xử thua hoặc tòa này xử như thế này, tòa khác xử khác gây bất ổn trong xã hội trong thời gian qua rất nhiều, đây là một thực tế”. Đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu kỹ vấn đề này, bởi nếu như trong dự thảo, mua bán, giao nhà xong, nhưng chưa sang tên, đổi chủ vài tháng sau nhà cửa biến động, người bán, người mua thay đổi ý kiến thì lại xảy ra tranh chấp. Nếu Luật không quy định rõ, sẽ rất khó cho việc phận định sau này. Một vấn đề nữa cũng hết sức phức tạp, phát sinh từ thực tế mà đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh cho rằng Luật chưa tính hết là vấn đề nhà chung cư. “Trong thực tế ở TP Hồ Chí Minh và ở tòa án, câu chuyện nhà chung cư hết sức phức tạp và hiện nay ứ đọng rất nhiều. Nên vừa rồi mới có câu chuyện ở tòa án Quận 6 buổi tối phải xuống làm công tác hòa giải, triệu tập 300 người dân ở một chung cư để giải quyết tranh chấp nhà xe trong chung cư sở hữu thuộc về ai. Tôi đọc trong này (dự thảo Luật – pv), tôi không hình dung hết được phức tạp, chưa thể giải đáp được hết tất cả những phức tạp về vấn đề nhà chung cư”- đại biểu Ánh kiến nghị.
Luật Kinh doanh Bất động sản phải loại trừ chạy dự án
Nhận định bất động sản (BĐS) là lĩnh vực cực kỳ quan trọng, có thể đẩy nền kinh tế đi rất nhanh, rất mạnh, cũng có thể làm sụp đổ nền kinh tế, trong phiên thảo luận chiều 18-6 về Luật Bất động sản (sửa đổi), các đại biểu cho rằng cần rất thận trọng trong việc xây dựng luật, đặc biệt khi “Luật mẹ” là Bộ luật Dân sự bao trùm các hoạt động dân sự và thương mại hiện chưa sửa chữa, mà chúng ta đã xây dựng một số luật “con”.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) nhấn mạnh trong Luật không nên đánh đồng các chủ thể liên quan đến bất động sản, để nảy sinh vấn đề người dân nhà rộng quá cho thuê bớt lại bị đối xử như người kinh doanh, trong khi có những người một năm bán 5, 7 cái nhà, thực chất là kinh doanh thì lại lách được luật. Một số vấn đề rất bất cập hiện nay như việc chủ đầu tư huy động vốn của người dân, sau đó chây ì, chậm tiến độ, không hoàn thành dựa án cũng được các đại biểu kiến nghị cần sửa đổi để bảo vệ quyền lợi của người góp vốn, bảo đảm quyền người mua được kiểm soát bất cứ lúc nào số tiền mình đã đóng vào và quyền được chuyển nhượng một cách thuận lợi khi có nhu cầu. Các quyết định hiện nay chưa có cách gì bắt nhà đầu tư chây ì tiếp tục hoàn thiện công trình. Một vấn đề nữa là trách nhiệm bảo hành, tuổi thọ công trình mà đại biểu Trương Trọng Nghĩa đánh giá là đang “cực kỳ sơ hở”. “Nhiều dự án lớn, cực kỳ mẫu mực, nhưng vẫn không đảm bảo tuổi thọ căn hộ. Người mua không kiểm soát được điều này, nên mua giá cao mà nhà nhanh chóng xuống cấp, thiệt hại không được ai đền bù. Do đó, các đại biểu cho rằng cần quy định rõ về tuổi thọ của dự án để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
Tại phiên thảo luận, các đại biểu cũng thống nhất quan điểm nên mở rộng phạm vi kinh doanh cho người Việt Nam ở nước ngoài hoặc người nước ngoài để tranh thủ nguồn lực, nhưng vẫn phải tránh những hệ lụy. Do đó, đại biểu Phùng Đức Tiến (Hà Nam) cho rằng Luật cần quy định “tạo sân chơi bình đẳng, nhưng phải đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước với các chủ thể này, đảm bảo lợi ích quốc gia...
Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng), tình trạng sử dụng nhà công vụ không đúng đối tượng, sai mục đích hoặc nhiều người không đủ tiêu chuẩn vẫn được ở nhà công vụ  đã gây dư luận không tốt trong xã hội. “Tôi đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu chỉ nên quy định đối tượng được hưởng chế độ nhà công vụ là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước được bố trí nhà ở theo yêu cầu về mặt an ninh và lực lượng vũ trang được điều động luân chuyển theo yêu cầu quốc phòng, an ninh. Các đối tượng còn lại nghiên cứu theo hướng khoán đưa vào tiền lương để họ tự hoàn toàn về nhà ở, ngân sách không phải bỏ ra một số tiền quá lớn để xây dựng và giá trị đất có thể chuyển thành tiền dùng vào việc khác” - ông nói.

HÌNH ẢNH THỰC TẾ

MẪU NỘI THẤT THANG MÁY CƠ BẢN


MẪU CABIN 001
MẪU CABIN 002